Tư Vấn Miễn Phí
(CATP) Ngày 14/7/2023, Chuyên đề Công an TPHCM từng có bài phản ánh sự bất thường trong việc đấu giá căn nhà của vợ chồng ông Nguyễn Hoàng Anh (SN 1950) và bà Châu Thu Hà (SN 1954, cùng ngụ xã An Hiệp, huyện Châu Thành, Sóc Trăng). Gần một năm trôi qua, vụ việc phát sinh nhiều tình tiết mới.
Theo hồ sơ, vợ chồng ông Anh và bà Hà cùng các con có tạo lập được một tài sản chung là quyền sử dụng đất thửa đất số 1608, tờ bản đồ 07, diện tích 284m², tại ấp Phụng Hiệp, xã An Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng. Ngày 18/11/1999, hộ gia đình ông Hoàng Anh được UBND tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số 01173. Tại thời điểm được cấp giấy chứng nhận, hộ ông bà gồm có: ông Nguyễn Hoàng Anh (chủ hộ), Nguyễn Thị Mai Thúy (SN 1975), Nguyễn Thị Mai Trinh (SN 1979) và Nguyễn Đức Trí (SN 1986). Đến năm 2010, gia đình ông Anh xây dựng trên đất một căn nhà cấp 3, diện tích sàn 442,4m2. Các thành viên trong hộ đã có ủy quyền cho cả ông Anh và bà Hà được toàn quyền đối với thửa đất. Văn bản này được Văn phòng công chứng Trần Thanh Dũng công chứng số 3112, ngày 27/7/2020.
Ngày 29/7/2020, ông Anh – bà Hà ký “hợp đồng (HĐ) thế chấp bất động sản bảo đảm nghĩa vụ thanh toán đối với hợp đồng đại lý số 58/2020 với Công ty TNHH MTV XSKT Cà Mau (Công ty XSKT Cà Mau)” để bảo đảm nghĩa vụ cho hộ kinh doanh đại lý vé số Hoàng Anh. Đối tượng thế chấp là quyền sử dụng đất thuộc thửa số 1608. HĐ được công chứng số 3135 và đăng ký giao dịch bảo đảm tại Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Châu Thành.
Cũng trong ngày 29/7/2020, vợ chồng ông Anh tiếp tục ký “HĐ thế chấp bất động sản bảo đảm nghĩa vụ thanh toán đối với hợp đồng đại lý số 58A/2020 với Công ty XSKT Cà Mau” để bảo đảm nghĩa vụ cho hộ kinh doanh đại lý vé số Hoàng Anh. Đối tượng thế chấp là căn nhà trên đất thuộc thửa số 1608. HĐ thế chấp này không được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật.
Ngày 20/10/2020, Công ty XSKT Cà Mau và đại lý vé số Hoàng Anh ký “biên bản về việc thanh toán nợ vượt định mức”. Số nợ của đại lý vé số Hoàng Anh nợ Công ty XSKT Cà Mau đã vượt định mức theo HĐ đại lý. Ngày 26/10/2020, ông Anh và Công ty XSKT Cà Mau ký kết “văn bản thỏa thuận về việc bán tài sản thế chấp”. Trong đó, hai bên thỏa thuận: Bán đấu giá tài sản thế chấp để thanh toán nợ vượt mức; việc bán đấu giá tài sản sẽ dừng lại khi đại lý vé số Hoàng Anh thanh toán xong nợ vượt mức; giá khởi điểm là giá ghi trong HĐ thế chấp.
Ngày 02/11/2020, Công ty XSKT Cà Mau và Công ty Đấu giá Sóc Trăng ký “HĐ dịch vụ đấu giá tài sản” để bán đấu giá tài sản thế chấp. Ngày hôm sau, Công ty Đấu giá Sóc Trăng tổ chức bán đấu giá nhà và đất tại thửa số 1608. Giá khởi điểm là 1,398 tỷ đồng (làm tròn) nhưng người trúng đấu giá là ông H.V.Đ. chỉ mua với giá 1,430 tỷ đồng.
Vì giá trị nhà đất gần bốn tỷ đồng, nhưng giá bán đấu giá “bèo”, có hiện tượng dìm giá của Công ty đấu giá, phía ông Anh không có đại diện tham gia nên vợ chồng ông Anh khởi kiện ra Tòa án nhân dân (TAND) H.Châu Thành, yêu cầu tuyên vô hiệu đối với “văn bản thỏa thuận về việc bán tài sản thế chấp” ngày 26/10/2020 được giao kết giữa ông Anh và Công ty XSKT Cà Mau; hủy bỏ “biên bản đấu giá tài sản” ngày 03/12/2020 của Công ty đấu giá hợp danh Sóc Trăng; tuyên vô hiệu đối với “HĐ mua bán tài sản đấu giá” số 103A giữa Công ty XSKT Cà Mau với ông Anh và ông H.V.Đ.
Ngày 30/6/2023, TAND huyện Châu Thành mở phiên xử sơ thẩm. Đại diện Viện Kiểm sát Nhân dân (VKSND) huyện Châu Thành đề nghị hủy kết quả bán đấu giá do vi phạm thủ tục, quy trình bán đấu giá. Tuy nhiên, bản án sơ thẩm số 13/2023 (ngày 03/7/2023) TAND huyện Châu Thành đã tuyên công nhận kết quả bán đấu giá và bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của phía gia đình ông Anh. Sau đó, phía khổ chủ kháng cáo.
Ngày 17/7/2023, VKSND huyện Châu Thành ban hành quyết định kháng nghị số 01/QĐ-VKS-DS, kháng nghị một phần nội dung của bản án dân sự sơ thẩm. Đề nghị Tòa án xét xử phúc thẩm theo hướng áp dụng khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để sửa bản án sơ thẩm theo hướng: Tuyên vô hiệu đối với văn bản thỏa thuận về việc bán tài sản thế chấp ngày 26/10/2020 được giao kết giữa ông Anh và Công ty XSKT Cà Mau và chấp nhận yêu cầu khởi kiện bổ sung của nguyên đơn (bà Hà) đối với yêu cầu này; hủy biên bản bán đấu giá tài sản ngày 03/12/2020 của Công ty Đấu giá hợp danh Sóc Trăng; tuyên vô hiệu đối với HĐ mua bán tài sản đấu giá số 103A giữa Công ty XSKT Cà Mau với ông Anh và ông H.V.Đ.
Tuy nhiên tại bản án phúc thẩm số 38/2024 ngày 30/01/2024, TAND tỉnh Sóc Trăng vẫn giữ quan điểm như cấp sơ thẩm.
Vụ việc đang được đương sự gửi đơn đến Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao, cùng Chánh án TAND cấp cao và Viện trưởng VKSND cấp cao để kiến nghị xem xét kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm số 38/2024 của TAND tỉnh Sóc Trăng và bản án sơ thẩm số 13/2023 của TAND huyện Châu Thành.
Theo Luật sư Nguyễn Tiến Mạnh – Giám đốc Công ty Luật TNHH Hồng Long (Đoàn Luật sư TPHCM), cả Tòa sơ thẩm và Tòa phúc thẩm đều xác định nhà đất thuộc thửa đất số 1608, tờ bản đồ số 07 chỉ là tài sản chung của vợ chồng của vợ chồng ông Anh – bà Hà là không chính xác. Thực tế, đây là tài sản chung của cả gia đình. Trong khi đó, ở các HĐ ký kết với Công ty XSKT Cà Mau, dù đối tượng thế chấp là căn nhà trên đất thuộc thửa số 1608, tờ bản đồ số 07 nhưng vợ chồng ông Anh nhân danh bản thân để giao kết, không đại diện cho hộ gia đình, vượt quá phạm vi ủy quyền (chỉ ủy quyền đất, không ủy quyền nhà), không tuân thủ đúng quy định Điều 212 Bộ luật Dân sự về sở hữu chung của các thành viên gia đình, HĐ cũng không được công chứng, đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật nên có căn cứ bị vô hiệu, dẫn đến việc bán đấu giá tài sản thế chấp là trái quy định. Ngoài ra, các văn bản khác như “Văn bản thỏa thuận về việc bán tài sản thế chấp”, “HĐ dịch vụ đấu giá tài sản” ngày 02/11/2020 và “HĐ mua bán tài sản đấu giá” ngày 08/12/2020 cũng chỉ do ông Anh nhân danh cá nhân ký kết, vượt quá phạm vi ủy quyền theo HĐ ủy quyền của các thành viên hộ gia đình. Đồng thời, việc ông Anh tự ý thực hiện các giao dịch mà không thông qua bà Hà cũng vi phạm quyền định đoạt của bà Hà đối với khối tài sản chung của vợ chồng theo quy định pháp luật.